7 tháng đầu năm nay, cả nước xuất siêu 100 triệu USD
nhưng riêng thị trường Trung Quốc lại thâm hụt 8,3 tỷ USD. Tình trạng
nhập siêu bắt đầu từ 2001 đang tăng chóng mặt trong 3 năm gần đây.
Trong
Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2011, Viện Nghiên cứu Kinh tế
& Chính sách (VEPR) - Đại học Quốc gia Hà Nội, đã cảnh báo về thực
trạng này. Số liệu VEPR thống kê cho thấy trong khoảng 10 năm gần đây,
Việt Nam phần lớn xuất sang Trung Quốc các mặt hàng như nhiên - nguyên
liệu (than, cao su, gỗ), thực phẩm (rau - củ - quả, thủy sản)… Trong khi
đó, lại nhập khẩu chủ yếu máy móc, sắt thép, hóa chất (phân bón), sợi -
nguyên liệu may…
Câu chuyện thâm hụt thương mại với Trung Quốc bắt đầu
được chú ý cách đây hơn 10 năm, khi Việt Nam chuyển từ xuất siêu 130
triệu USD năm 2000 sang nhập siêu gần 200 triệu USD một năm sau đó. Con
số này tuy không lớn nhưng liên tục tăng dần trong những năm tiếp theo.
Đồng thời, tỷ trọng trong tổng nhập siêu của toàn nền kinh tế ngày một
cao.
Nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012. Đơn vị: tỷ USD.(*) Tính đến hết tháng 7/2012. Số liệu: GSO |
Đến 2009, thâm hụt với Trung Quốc (11,5 tỷ USD) gần
như đã chiếm toàn bộ số chênh lệch giữa xuất - nhập khẩu của Việt Nam
(12,2 tỷ USD). Liên tiếp trong vòng 2 năm sau đó, mức chênh lệch này
nhanh chóng vượt xa tổng nhập siêu. Sau 7 tháng đầu năm 2012, Việt Nam
nhập ròng từ Trung Quốc 8,3 tỷ USD (xuất 7 tỷ USD, nhập khẩu 15,3 tỷ),
trong khi cán cân tổng thể vẫn xuất siêu khoảng 100 triệu USD. Với con
số này, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng
chỉ đứng thứ 5 về xuất khẩu.
Xuất - nhập khẩu của Việt Nam với các thị trường lớn sau 7 tháng 2012. Số liệu: GSO |
“Soi” lại những mặt hàng này trong 6 tháng đầu năm, số
liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu ở hầu hết
các nhóm đều giảm khoảng 5 - 30% về cả lượng lẫn giá trị hàng hóa. Riêng
xuất khẩu than giảm 32% thì bán cho Trung Quốc (chiếm gần 80% tổng xuất
khẩu) giảm 16%. Nhập khẩu nói chung cũng có dấu hiệu chậm lại, các mặt
hàng đều giảm 4 - 14%, nhưng lượng nhập từ thị trường Trung Quốc vẫn
tăng đều.
Cụ thể, lượng nhập sắt thép giảm 4% nhưng từ thị
trường Trung Quốc vẫn đạt hơn một triệu tấn, tăng 22%. Giá trị nhập sợi -
nguyên liệu may từ thị trường này thậm chí còn tương đương hơn 2 tỷ
USD, tăng nhẹ (0,7%) trong khi giá trị nhập tổng thể giảm hơn 14% so với
cùng kỳ. Việt Nam cũng nhập khoảng 2,4 tỷ USD máy móc từ Trung Quốc
trong 7 tháng. Con số này tuy có giảm (2%) nhưng vẫn thấp hơn nhiều so
với mức giảm chung (11,3%) của toàn ngành.
Tìm hiểu về nguyên nhân nhập siêu từ Trung Quốc, các
nhà nghiên cứu đều cho rằng, có nhiều lý do, trong đó năng lực sản xuất
hàng tiêu dùng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, sức cạnh tranh yếu, hiệu quả đầu
tư - năng suất lao động yếu, dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu để củng
cố cán cân thương mại… Quan trọng hơn, do cơ cấu kinh tế chậm chuyển
đổi, thiếu công nghiệp phụ trợ, nặng về gia công hiện phải nhập tới 80 -
90% nguyên phụ liệu cho sản xuất, mà chủ yếu là từ Trung Quốc - nơi
nguồn cung các mặt hàng này vừa rẻ, lại vừa dồi dào.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, những nguyên
nhân trên đã dẫn tới tình trạng xuất khẩu của Việt Nam tuy có tăng,
nhưng rất nhiều trong số đó là xuất khẩu “hộ” Trung Quốc. Còn việc nhập
siêu từ Trung Quốc, bà Chi Lan chỉ ra nguyên nhân đáng lo ngại hơn.
Phân tích của bà Phạm Chi Lan cũng như báo cáo của
VEPR cho thấy, lý do quan trọng khiến nhập siêu gia tăng trong những năm
gần đây là sự thắng thế liên tục của các nhà thầu Trung Quốc
trong các dự án tại Việt Nam. Riêng giai đoạn 2007 - 2010, các doanh
nghiệp nước này đã thắng thầu trong ít nhất 5 dự án có tổng vốn đầu tư
từ 450 triệu USD trở lên (trong đó có 2 trường hợp vốn trên 2 tỷ USD).
Các dự án “ưa thích” của nhà thầu Trung Quốc chủ yếu nằm trong các lĩnh
vực công nghiệp thượng nguồn như điện (90% các công trình điện ở Việt
Nam hiện nay), khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất, công trình
giao thông…
Các dự án lớn Trung Quốc thắng thầu giai đoạn 2007 - 2010 |
Nhà thầu Trung Quốc ngày càng chiếm ưu thế tại các dự án tại Việt Nam. Ảnh: Xinhua |
Đây chính là lý do khiến máy móc - thiết bị kỹ thuật
luôn là một trong những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc
vào Việt Nam. “Điều này bất lợi hơn nhiều so với nhập nguyên phụ liệu,
bởi đa phần máy móc nhập từ Trung Quốc không phải công nghệ nguồn, hoặc
đã lạc hậu. Các dự án xây dựng cũng hay chậm tiến độ, có hoàn thành thì
chất lượng cũng không cao. Rồi chính người Việt lại phải sử dụng những
sản phẩm, công nghệ đó”, bà Lan phân tích.
Một vấn đề khác cũng được chuyên gia này chỉ ra là
phần lớn dự án quan trọng ở lĩnh vực điện, giao thông mà phía Trung Quốc
đang làm nhà thầu đang sử dụng vốn vay ODA. “Như vậy, vốn giá rẻ mà
Việt Nam đi vay, các nước khác giúp đỡ, lại được sử dụng để mua máy móc
Trung Quốc, làm lợi cho họ. Điều này sẽ khiến các nhà tài trợ không thực
sự hài lòng”, chuyên gia này nhận định.
Trên thực tế, cơ quan quản lý từ lâu cũng đã nhận rõ
sự bất hợp lý trong cán cân thương mại 2 nước. Ngay từ năm 2007, Bộ Công
Thương đã vạch ra đề án Phát triển xuất nhập khẩu với Trung Quốc giai
đoạn 2007 - 2015 với mục tiêu hạn chế dần thâm hụt thương mại. Phát biểu
với báo chí gần đây, Nguyễn Thành Biên cũng cho biết giải pháp quan
trọng nhất để đạt mục tiêu này là tăng nhanh xuất khẩu, trong đó trước
mắt tập trung vào các mặt hàng có lợi thế tự nhiên và lao động. Kế đó
(2016-2020), sẽ đẩy mạnh các mặt hàng công nghệ mới có giá trị gia tăng,
hàm lượng công nghiệp và chất xám cao…
Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế,
trong giai đoạn từ 2007 đến nay, Việt Nam vẫn chưa thành công trong việc
hạn chế nhập siêu từ Trung Quốc, thậm chí ngày một thiệt thòi hơn trong
giao thương. Nguyên nhân chủ yếu là do các biện pháp được đề ra nhưng
chưa được thực hiện một cách nhất quán và kiên định.
Một thực tế khác là các doanh nghiệp Trung Quốc hầu
như chỉ thực hiện chiến lược “nhà thầu” chứ rất ngại mở rộng đầu tư vào
Việt Nam. Năm 2011, vốn FDI từ Trung Quốc chỉ đạt hơn 800 triệu USD,
đứng thứ 14 trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư (số vốn trong 4
năm trước đó cũng chỉ dao động trong khoảng 360 - 570 triệu USD). Số vốn
này khó có thể khỏa lấp thâm hụt thương mại nhiều tỷ USD của Việt Nam
trên cán cân thanh toán tổng thể với Trung Quốc.
Theo kết quả nghiên cứu tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000 - 2011 và các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), trong giai đoạn 2000 - 2010, tỷ giá thực của đồng Việt Nam đã đắt lên so với đôla Mỹ 25,9%, trong khi con số tương tự của nhân dân tệ với USD là 19,78%. Ngay cả khi tính thêm lần phá giá 9,3% vào năm 2011 thì đồng Việt Nam vẫn đắt lên tương đối so với nhân dân tệ. Điều này khiến cho hàng xuất khẩu của Việt Nam gặp thêm bất lợi trước các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc. |
Nhật Minh
ConversionConversion EmoticonEmoticon